Thoạt nghe, nhiều người thắc mắc: Cựu Ước từng cấm tạc vẽ hình tượng Thiên Chúa, vậy vì sao về sau Kitô hữu lại sử dụng và tôn kính ảnh tượng cách công khai, thậm chí xem đó như “ngôn ngữ” không thể thiếu trong đời sống đạo? Bài viết này tóm lược nền tảng Kinh Thánh, diễn tiến lịch sử, giáo huấn và thực hành phụng vụ, để thấy rõ mục đích đích thực của việc tôn kính ảnh tượng.
Dân Ítraen tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất và vô hình; để ngăn ngừa việc lẫn lộn với ngẫu tượng dân ngoại, Lề Luật cấm tạc vẽ để thờ. Lệnh cấm này bảo vệ tính siêu việt của Thiên Chúa, chứ không phủ nhận mọi hình thức biểu trưng (chẳng hạn menorah – chân đèn bảy ngọn – như một dấu chỉ nhắc nhớ sự hiện diện của Chúa).
Với Ngôi Lời làm người, Thiên Chúa vô hình mặc lấy dung mạo hữu hình. Đức Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Như vậy, phủ nhận khả thể trình bày Đức Kitô là động chạm mầu nhiệm Nhập Thể. Dẫu các cộng đoàn tông đồ sơ khai chưa phổ biến ảnh tượng, nền tảng thần học cho việc trình bày và tôn kính Đức Kitô đã xuất hiện từ biến cố Nhập Thể.
Giữa môi trường Hy-La, nơi hình ảnh quen thuộc trong tôn giáo và nghệ thuật, các tông đồ từng bước hội nhập văn hoá. Ảnh tượng dần được dùng như “bài giảng thầm lặng” cho người ít chữ, giúp dạy giáo lý bằng trực quan.
Ba thế kỷ đầu, Kitô hữu bị bách hại; trong catacumba, họ dùng biểu tượng để tuyên xưng đức tin: cá (Ichthys), chi-rho (XP), hình Mục Tử vác chiên, Giôna… Đây là ký hiệu đức tin, chưa phải tôn kính phụng tự theo nghĩa hẹp.
Dưới Lêô III và Constantius V, ảnh tượng bị cấm; có công đồng Hiêria (754) lên án việc tôn kính hình ảnh. Nhiều bích hoạ và tranh khảm bị phá hủy. Thánh Gioan Đamascênô biện hộ rằng khước từ ảnh tượng là xúc phạm mầu nhiệm Nhập Thể.
Công đồng khôi phục việc tôn kính ảnh tượng và phân biệt rõ:
Việc tôn kính ảnh tượng là tôn kính nhân vật được trình bày, không phải tôn thờ vật chất. Hành vi thắp nến, hôn kính, quỳ bái quy về Đấng ảnh tượng diễn tả.
Ngoài ảnh tượng do tay người làm, truyền thống còn ghi nhận một số “acheropita” (không do tay người), như tấm khăn liệm, hình thánh tích… được trân kính như dấu chỉ gợi lòng tin.
Hiến chế Phụng vụ Sacrosanctum Concilium tán dương nghệ thuật thánh vì giúp tâm trí hướng về Thiên Chúa. Ảnh tượng nên được đặt vừa phải, xếp đặt thích hợp, tránh số lượng quá nhiều gây chia trí; mục tiêu là nâng đỡ việc cử hành và giáo dục đức tin.
GLHTCG 1159–1162 thì Màu nhiệm Nhập Thể mở ra thời kỳ mới của ảnh tượng. Trong phụng vụ, mọi dấu chỉ quy về Đức Kitô; ảnh tượng của Mẹ và các thánh cũng nói về Đức Kitô được tôn vinh nơi họ. Chiêm ngắm ảnh tượng, cộng đoàn được khích lệ nên giống Chúa và chứng nhân của Người.
Quy chế Sách Lễ Rôma cho phép đặt ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ, các thánh trong thánh đường, miễn là chúng hỗ trợ việc cử hành và tránh làm phân tán. Nguyên tắc: đẹp – có ý nghĩa – phục vụ mầu nhiệm đang cử hành.
Hội Thánh đi từ bảo vệ chống ngẫu tượng đến xác nhận giá trị sư phạm – phụng vụ của ảnh tượng trong ánh sáng Nhập Thể. Tượng ảnh không phải mục đích, mà là con đường: nhờ ngôn ngữ hình khối và sắc màu, ta được dẫn tới Đấng vô hình.
Vì thế, khi quỳ trước một bức ảnh Đức Mẹ hay Thánh giá, điểm đến không dừng ở vật chất, nhưng vượt qua hình ảnh để gặp Chính Đấng ảnh tượng diễn tả. Đó là ý nghĩa đích thực của việc tôn kính ảnh tượng trong đức tin Công giáo.
Nguồn: